Chỉ một sự hiện diện của đội ngũ IMF tại thủ đô Hà Nội, dường như đã gây nên cơn rúng động mới nhất. Tuy nhiên, sự khó chịu thực sự chỉ bắt đầu gần đây qua việc bắt giữ Nguyễn Đức Kiên vào ngày 20 Tháng Tám, một doanh nhân sáng chói, người sáng lập Ngân hàng cổ phần Thương mại Châu Á (ACB), một trong những ngân hàng lớn nhất của đất nước.
Dù rời khỏi hội đồng quản trị của ACB từ
năm ngoái, việc bắt giữ ông Kiên vì những quy kết mơ hồ vì “kinh doanh
bất hợp pháp” đủ để bắt đầu một cuộc tháo rút tiền ra khỏi ngân hàng và
một cơn sụt giảm tại thị trường chứng khoán ở TP Hồ Chí Minh ( nơi ngập
ngừng gợi nhớ đến người Mác Xít vĩ đại có thể từng nghĩ đến việc đặt tên
mình ở đó). Niềm tin tiếp tục bị suy yếu khi giám đốc điều hành ACB bị
bắt vì các cáo buộc “sai phạm về kinh tế”. Toàn thể bộ phim nhắc nhở các
nhà đầu tư rằng sau nhiều năm quản lý cẩu thả và cho vay tứ tán, các
ngân hàng Việt Nam đang trong tình trạng thảm khốc, và tham nhũng cùng
lãng phí đang tràn ngập nền kinh tế.
Những việc này chẳng bao giờ là một điều
khó hiểu, nhưng trong những năm bùng nổ giữa thập kỷ trước, khi nền
kinh tế đang tăng trưởng 8% một năm và đầu tư nước ngoài được tuôn vào,
không một ai nghĩ đến. Bây giờ, khó khăn lan rộng với tăng trưởng chậm
lại, các khoản nợ kinh doanh khổng lồ và sự cạnh tranh hơn từ những nơi
như Cambodia, Indonesia và Myanmar. Hai tháng trước, việc ngân hàng
trung ương thừa nhận các khoản nợ xấu đã lên đến 10% của tất cả các
khoản vay ngân hàng, tăng gấp đôi mức độ từng thừa nhận trước đây cũng
chả giúp cho tình hình khá hơn. Con số thực tế có thể là hai hoặc ba
lần.
Bế tắc ở Hà Nội
Và do đó, niềm tin vào nền kinh tế Việt
Nam, đặc biệt từ các nhà đầu tư phương Tây đang đổ nhào. Đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, ở mức 8 tỷ USD trong bảy tháng đầu
năm nay, thấp hơn 1/3 so với một năm trước đó. Trong đó, Nhật Bản chiếm
hoàn toàn một nửa.
Cố gắng nhìn vào khía cạnh tươi sáng của
sự việc, một số doanh nghiệp địa phương đã hoan nghênh các ngân hàng
trung ương vì tối thiểu đã dám thừa nhận các số liệu ảm đạm – vốn không
bao giờ được chấp nhận trong quá khứ. Tương tự, họ nói rằng việc bắt giữ
ông Kiên cho thấy một quyết tâm mới của chính phủ để trấn áp những sự
thái quá.
Thật vậy, các vụ bắt giữ các nhân vật
nổi tiếng và sa thải khác đã diễn ra trong năm nay. Chín giám đốc điều
hành Vinashin, một công ty đóng tàu và là một trong các doanh nghiệp nhà
nước lớn nhất, thống trị nền kinh tế, bị bỏ tù đến 20 năm sau sự việc
công ty gần sụp đổ dưới 4,5 tỷ USD nợ. Người đứng đầu một doanh nghiệp
khổng lồ, Điện lực Việt Nam, đã bị sa thải sau khi công ty này bị lỗ hơn
1 tỷ USD năm ngoái.
Tháng này công an đã bắt giữ viên cựu
lãnh đạo hãng tàu quốc gia từng bỏ trốn từ tháng ba sau một cuộc điều
tra về tham nhũng tại công ty. Trong bối cảnh này, một nhà đầu tư dài
hại người nước ngoài ở trong nước cho rằng việc bắt giữ ông Kiên là
“tích cực và cần thiết”, là dấu hiệu cho thấy một động lực chống tham
nhũng đang được tăng tốc.
Những nhà phân tích tình hình khác hoài
nghi hơn, lập luận rằng các vụ bắt giữ vì động cơ chống tham nhũng thì
ít mà đa phần là hậu quả của một cuộc chiến dành quyền lực ở thượng tầng
Đảng Cộng sản, đặc biệt là giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, và Chủ tịch
Trương Tấn Sang. Các giám đốc điều hành Vinashin và Nguyễn Đức Kiên từng
là những người đồng minh thân cận với thủ tướng, và sự sụp đổ của họ sẽ
làm suy giảm vị thế của ông.
Những gì hơn thế nữa là, Nguyễn Quang A,
một kinh tế gia độc lập đã lập luận, ngay cả nếu những vụ bắt giữ này
thực sự báo trước một chiến dịch phối hợp để loại bỏ những ông chủ nhũng
lạm, cũng khó có thể làm trầy xước được lớp bề mặt của các khó khăn
kinh tế đã bám chặt rể của đất nước. Chốn ưu tiền của các doanh nghiệp
nhà nước – nắm giữ hai phần năm sản lượng của đất nước – chủ yếu chịu
trách nhiệm cho tất cả các vụ ăn hối lộ, phân bố nguồn lực sai lầm và
chi tiêu điên dại vốn đã kéo Việt Nam đi xuống.
Các giám đốc điều hành nước ngoài nói
rằng làm ăn ở đất nước này là một cơn ác mộng. Không chỉ tống một vài
người vào tù, ông A nói, mà toàn bộ hệ thống cần phải thay đổi.
Tương tự Trung Quốc, những người Cộng
sản bám vào các doanh nghiệp nhà nước như một phương tiện để giữ kiểm
soát chính trị đối với kinh tế. Tuy điều ấy có nghĩa là kết nối chính
trị nhưng các nhà quản lý không đủ năng lực đã được phép xây dựng những
đế chế sắc màu rực rỡ – thường bao gồm các công ty taxi, ngân hàng,
khách sạn và nhiều loại khác – vốn không có ý nghĩa kinh doanh là bao.
Cách làm ăn như thế chỉ giúp một ít chủ nhân giàu có thêm nhưng chồng
chất các khoản ợ khổng lồ lên các doanh nghiệp nhà nước , để cuối cùng,
chính phủ phải chịu trách nhiệm.
Đảng Cộng sản cho thấy không có dấu hiệu
cắt giảm những hoang phí nơi các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ mới năm
ngoái, họ lặp đi lặp lại cam kết mạnh mẽ của mình rằng đảng phải tiếp
tục đóng “vai trò chủ đạo” trong nền kinh tế. Hiện nay, nếu có điều gì
quyết tâm hơn để kiểm soát chính trị thì chính là việc các cơ quan chức
năng đã tích cực một cách bất tưòng trong việc đàn áp những tiếng nói
bất đồng chính kiến, đặc biệt là những người kêu gọi dân chủ hơn. Cụ thể
là, những người viết blog bị săn lùng, bị kết án tù nặng nề vì “tuyên
truyền chống nhà nước”.
Điều ấy thật khó có thể cho thấy là hành vi của một chính phủ muốn cải tổ hệ thống.